Những đứa con của nửa đêm
Phan_12
“Làm cái kẹo giòn,” Ngài Mehwold nói, chìa ra cái đĩa. “Tự nhiên đi, Ngài S.. Phải, một chuyện kỳ quái. Chưa từng thấy gì như thế. Mấy tay hàng xóm cũ của tôi - toàn dân ở nát đất Ấn Độ này rồi - tự nhiên, cắp đít đi luôn. Chả ra gì. Thấy Ấn Độ mất ngon. Sau một đêm. Quá khó hiểu với một gã đơn giản như tôi. Như thể họ phủi sạch tay - không muốn mang theo một mẩu nào. “Thôi bỏ đi,” họ bảo. Về quê, làm lại từ đầu. Mà có thiếu tiền đâu, chẳng ai thiếu cả, ông biết đấy, nhưng ngay cả thế vẫn quá Dị. Bỏ tôi lại, ôm cả cái nhà. Rồi tôi nảy ra một ý tưởng.”
“… Phải, quyết định, quyết định,” Amina kích động nói, tôi thì ngồi một đống ở đây với đứa bé, tôi thì còn làm được gì nữa? Tôi phải sống ở nhà người lạ với đứa bé đang lớn dần, thì sao ?... Ôi, mình bắt tôi làm những gì thế này...”
“Đừng khóc,” Ahmed nói, đi tới đi lui trong phòng, “Ngôi nhà ấy tốt mà. Mình biết là mình cũng thích nó. Mà có hai tháng… chưa đầy hai tháng... sao, nó đạp à? Để tôi xem nào... Đâu? Đây à?”
“Đấy,” Amina nói, lấy tay quẹt mũi, “Đạp khiếp lên được ấy.”
“Ý tưởng của tôi,” Ngài Methwold giải thích, mắt đăm đăm nhìn mặt trời sắp lặn, “là dàn dựng việc chuyển giao tài sản của riêng tôi. Bỏ lại tất cả, ngài thấy đấy? Chọn những người thích hợp, như ngài chẳng hạn, Ngài Sinai! - rồi bàn giao tất cả nguyên vẹn tuyệt đối: trong tình trạng hoạt động hoàn hảo. Thử nhìn xem: mọi thứ đều ngon nghẻ, ngài có công nhận không? Chuẩn không cẩn chỉnh, tụi tôi vẫn nói. Hay, như các vị trong tiếng Hindu: Sabkuch ticktock hai. Mọi thứ đều ngon lành.”
“Mấy ngôi nhà này cũng toàn người tử tế đang mua thôi,” Ahmed đưa cho Amina cái khăn mùi soa, “hàng xóm mới, tử tế... nhà ông Homi Catrack bên Điện Versailles, người Parsee, nhưng là chủ ngựa đua. Sản xuất phim này kia. Rồi nhà Ibrahim bên Sans Souci, Nussie Ibrahim cũng đang có thai, hai người có thể là bạn bè... và ông lão Ibrahim, có mấy đồn điền sisal[5] hoành tráng ở châu Phi. Gia đình tử tế.”
[5] Một loài cây cho sợi, dùng để bện dây thừng.
“…Và sau đó tôi muốn làm gì với ngôi nhà cũng được...?”
“Ừ, sau đó, tất nhiên, ông ta đi rồi còn đâu...”
“… Tất cả đã được thu xếp đâu vào đấy,” William Methwold nói. “Ngài có biết ông tổ tôi là người có ý tưởng xây dựng cả thành phố này không? Một kiểu Raffles của Bombay[6]. Là hậu duệ của cụ, trong thời khắc trọng đại này, tôi thấy, tôi không biết, cần phải đóng vai của mình. Phải, tuyệt vời... bao giờ ngài dọn đến? Nói một câu là tôi dọn ra Khách sạn Taj ngay. Mai à? Tuyệt lắm. Sabkuch ticktock hai.”
[6] Sir Thomas Stamford Raffles, người thiết lập thương cảnh Anh ở Singapore năm 1818.
Đây là những người đã sống quanh tôi thời thơ ấu: Ngài Homi Catrack, đại gia điện ảnh và chủ ngựa đua, có đứa con gái ngớ ngẩn Toxy, phải bị nhốt cùng bà bảo mẫu, Bi-Appah, người đàn bà đáng sợ nhất tôi từng biết; rồi nhà Ibrahim ở Sans Souci, ông lão Ibrahim Ibrahim có chòm râu dê và sisal, hai ông con trai Ismail và Ishaq, và cô vợ Nussie nhỏ thó le te đen đủi của Ismail, mà tụi tôi vẫn gọi là Nussie-vịt-bầu vì cái dáng đi lạch bạch, chủ nhân của cái tử cung trong đó thằng Sonny bạn tôi đang lớn dần, ngay lúc này, càng lúc càng đến gần hơn cái tai ương vối chiếc kẹp phụ khoa... Biệt thự Escorial được chia thành nhiều căn hộ. Tầng trệt là nhà Dubash, chồng là một nhà vật lý sẽ trở thành ngọn hải đăng của trung tâm nghiên cứu nguyên tử Trombay, vợ là một phụ nữ tầm thường mà dưới vẻ nhạt nhẽo ẩn giấu một sự cuồng tín tôn giáo thực thụ - nhưng tôi sẽ để nó nằm yên đó, chỉ đề cập đến việc họ là bố mẹ thằng Cyrus (mà vài tháng nữa mới được thụ thai), sư phụ đầu tiên của tôi, đứa chuyên đóng vai con gái trong những vở kịch ở trường, và biệt hiệu là Cyrus-đại-đế. Tầng trên là bạn của bố tôi Bác sĩ Narlikar, người cũng mua một căn hộ ở đây... ông ta cũng đen như mẹ tôi: có khả năng tỏa sáng rực rỡ mỗi khi hưng phấn hay hứng tình; ghét trẻ con, dù chính ông ta đưa chúng tôi ra đời; và sẽ giải phóng ra thành phố, khi ông ta chết, một đám đàn bà có thể làm mọi chuyện và không chướng ngại gì cản được bước tiến của họ. Và, cuối cùng, ở tầng cao nhất, là Trung tá Sabarmati và Lila - Sabarmati, ngôi sao đang lên của Hải quân, cùng cô vợ với những sở thích đắt tiền; anh ta vẫn chưa tin nổi vận may của mình khi kiếm được cho cô nàng một căn nhà rẻ thế. Họ có hai con trai, mười tám tháng và bốn tháng, sẽ lớn lên thành hai thằng nhóc một chậm chạp một hiếu động, biệt hiệu Mắt Ghẻ và Tóc Dầu; cả hai không biết (sao mà biết được?) rằng tôi sẽ hủy hoại cuộc đời tụi nó... Được William Methwold lựa chọn, những người sẽ hình thành trung tâm thế giới của tôi dọn đến Điền trang, và chịu đựng sự ngẫu hứng kỳ quặc của người Anh nọ - vì cái giá, nói cho cùng, quá tốt.
... Ba mươi ngày nữa là đến ngày chuyển giao quyền lực và Lila Sabarmati đang nói chuyện điện thoại, “Làm sao chị chịu được hả, Nussie? Ở đây phòng nào cũng có lũ vẹt biết nói, và trong almirah[7] tôi thấy đầy váy bị nhậy cắn với xu chiêng cũ!’’... Rồi Nussie mách Amina, “Cá vàng, Allah, tôi không chịu nổi bọn nó, nhưng Methwold sahib tự mình đến cho chúng ăn... rồi mấy nồi Bovril[8] dở mà ông ấy bảo tôi không được vứt đi... điên rồi, chị Amina ạ, chúng ta đang làm gì thế này?”... Còn ông lão Ibrahim nhất định không chịu bật cái quạt trần trong phòng ngủ, lủng bủng, “Cái máy ấy sẽ rơi - nó sẽ chặt đầu tao xuống giữa đêm - thứ nặng như thế thì dính trên trần được bao lâu?”... Còn Homi Catrack, một dạng nhà tu khổ hạnh, thì buộc phải nằm trên một chiếc đệm to và êm, ông ta bị đau lưng và mất ngủ, còn những vòng đen hệ quả của giao phối cận huyết trong mắt ông ta bị bao quanh bởi từng quầng thâm mất ngủ, và đám người làm bảo nhau, “Thảo nào các sahib ngoại quốc đều bỏ đi, sahib ạ, họ chắc là thèm ngủ chết được.” Nhưng tất cả vẫn kiên gan bám trụ; và ngoài những vấn đề cũng có cả những ưu điểm. Hãy nghe Lila Sabarmati (“cô ả ấy - đẹp đến nỗi khó mà đứng đắn được” mẹ tôi nói)... “Một chiếc pianola[9], chị Amina! Và nó vẫn chạy. Suốt ngày em chỉ ngồi và ngồi, bật đủ thứ trên trời dưới biển! “Đôi Tay Trắng Xanh Em Yêu Bên Vườn Shalimar... vui thật, vui lắm ấy, chị chỉ cần nhấn cần đạp!”... Còn Ahmed Sinai tìm thấy một tủ cocktail ở Biệt thự Buckingham (vốn là tư gia của chính Methwold trước khi trở thành nhà tôi); ông đang khám phá sự hưng phấn đến từ whisky Scotch hảo hạng và nói, “Thì sao? Ngài Methwold chỉ hơi lập dị một chút, thế thôi - chả lẽ chúng ta không chiều nổi ông ấy? Với nền văn minh lâu đời của mình, chả lẽ chúng ta không thể văn minh như ông ấy?”... và làm một hơi cạn cốc. Ưu và nhược điểm: “Cả một lũ chó phải trông nom, chị Nussie,” Lila Sabarmati cằn nhằn. “Em ghét chó, ghét lắm ấy. Và em mèo bé bỏng choochie của em, dễ sương lắm cơ, nó sợ chết khiếp đi ấy!”... Và Bác sĩ Narlikar, lung linh lên vì bực bội, “Ngay đầu giường tôi! Toàn tranh trẻ con, anh Sinai! Đấy anh xem: Béo! Hồng! Ba đứa! Nghe có được không?”... Nhưng giờ khi chỉ còn hai mươi ngày nữa, tình hình lắng dịu dần, mặt gai góc của mọi việc cũng nhòa đi, nên tất cả không ai nhận thấy điều đang diễn ra: tòa Điền trang, Điền trang của Methwold, đang thay đổi họ. Tối tối cứ sáu giờ họ lại ra vườn, bày tiệc cocktail, và khi William Methwold ghé thăm, họ vào rất ngọt những vai giả giọng Oxford lè nhè; và họ học, về quạt trần và bếp ga và chế độ ăn thích hợp cho lũ vẹt đuôi dài, còn Methwold giám sát sự biến đổi của họ, lầm rầm khe khẽ. Nghe cho kỹ: ông ta đang nói gì? Phải, đúng vậy. “Sabkuch ticktock hai,” William Methwold lầm rầm. Ngon lành cả.
[7] Tủ quần áo
[8] Một nhãn hiệu nước thịt hầm của Anh
[9] Loại đàn piano tự động, chơi những cuộn nhạc bấm lỗ
Khi ấn bản Bombay của tờ Thời báo Ấn Độ vốn đang tìm kiếm một phóng sự chân dung hấp dẫn nhằm chào mừng ngày Độc lập sắp tới, tuyên bố sẽ trao giải thưởng cho bất kỳ bà mẹ Bombay nào có thể sắp xếp sinh em bé đúng vào thời điểm ra đời của quốc gia mới, Amina Sinai, vừa tỉnh dậy sau một giấc mơ bí ẩn về giấy bẫy ruồi, bèn dán mắt vào tờ báo. Tờ báo được gí vào mũi Ahmed Sinai; và ngón tay Amina, đắc thắng chọc vào trang báo, nhấn mạnh sự quả quyết tuyệt đối trong giọng bà.
“Thấy chưa, janum ?” Amina tuyên bố. “Chính là em đấy.”
Hiện lên, trước mắt họ, là viễn cảnh về những dòng tít in đậm loan tin “Một Tấm hình Duyên dáng của Bé Sinai - Đứa trẻ của Giờ phút Huy hoàng này!” - một viễn cảnh về những tấm-hình-em-bé A-1 thượng-hạng trang-nhất cỡ-đại; nhưng Ahmed bắt đầu phản bác, “Thử tính đến khả năng trượt xem, Begum,” cho đến khi bà mím chặt môi lại đầy bướng bỉnh, và lặp lại, “Không có nhưng nhị gì cả; chắc chắn đó là em; em biết chắc là như thế. Đừng hỏi sao em biết.”
Mặc dù Ahmed thuật lại lời tiên đoán của vợ mình cho William Methwold như một chuyện cười bên bàn cocktail, Amina vẫn không lay chuyển, kể cả khi Methwold bật cười, “Trực giác của phụ nữ - tuyệt thật, bà S.! Nhưng quả thật, bà khó có thể chờ đợi chúng tôi sẽ...” Ngay cả trước áp lực từ ánh mắt khó chịu của cô ả hàng xóm Nussie-vịt-bầu, người cũng đang có thai, và cũng đọc tờ Thời báo Ấn Độ, Amina vẫn không sờn lòng, vì lời tiên tri của Ramram đã ngấm sâu vào tim bà.
Thành thực mà nói, càng về sau trong thời kỳ mang bầu, Amina càng thấy lời thầy bói mỗi lúc một đè nặng hơn lên vai bà, đầu bà, quả bóng căng tròn của bà, nên khi mắc vào mạng nhện của nỗi lo âu sẽ sinh ra một đúa trẻ hai đầu, bà đã bằng cách nào đó thoát khỏi cái ma lực vi diệu của Điền trang Methwold, và miễn nhiễm với tiệc cocktail, vẹt đuôi dài, pianola và giọng Anh. Ban đầu, có gì đó mơ hồ trong sự quả quyết của bà rằng mình sẽ giành được giải thưởng của tờ Thời báo, bởi bà đã thuyết phục bản thân rằng nếu phần này trong lời đoán mệnh của ông thầy bói ứng nghiệm, nó sẽ chứng tỏ rằng những gì còn lại cũng chính xác như vậy, bất kể ý nghĩa của chúng là gì. Cho nên đó không hề là âm sắc của niềm tự hào và mong đợi thuần túy khi mẹ tôi đáp, “Chẳng trực giác gì hết, Ngài Methwold ạ. Đây là sự thật được bảo đảm.”
Với chính mình bà nói thêm: “Còn điều này nữa: ta sẽ có một đứa con trai. Nhưng nó sẽ cần được chăm sóc rất nhiều, nếu không thì...”
Tôi cảm thấy, sâu trong huyết quản mẹ tôi, có lẽ sâu hơn bà nghĩ, những tư tưởng siêu nhiên của Naseem Aziz bắt đầu tác động tới suy nghĩ và hành động của bà - những tư tưởng đã thuyết phục Mẹ Bề trên rằng máy bay là phát minh của quỷ dữ, rằng máy ảnh có thể đánh cắp linh hồn ta, rằng hồn ma cũng là một phần tất yếu cùa hiện thực như Thiên Đường, rằng đặt những vành tai rất thánh nào đấy giữa ngón cái và ngón trỏ là một tội lỗi không hơn không kém, lúc này đang thầm thì vào cái đầu đang tối lại của con gái bà. “Dù chúng ta đang ngồi giữa đống rác Anh quốc này,” mẹ tôi bắt đầu nghĩ, “đây vẫn là Ấn Độ, và những người như Ramram Seth vẫn biết cái mà họ biết.” Cứ thế, thái độ hoài nghi của người cha kính yêu của bà bị thay thế bằng tính cả tin của bà ngoại tôi; và, đồng thời, đốm lửa phiêu lưu Amina thừa kế từ Bác sĩ Aziz đã bị dập tắt bởi một sức nặng khác, có trọng lượng tương đương.
Tới khi mùa mưa đến vào cuối tháng Sáu, cái bào thai đã thành hình trọn vẹn trong tử cung bà. Đầu gối và mũi đã xuất hiện; và có bao nhiêu cái đầu thì bấy nhiêu đã vào vị trí. Thứ từng (vào buổi ban đầu) nhỏ bằng một dấu chấm đã to dần lên thành một dấu phẩy, một từ, một câu, một đoạn, một chương; lúc này nó bùng nổ với những bước phát triển phức tạp hơn, trở thành, có thể nói, một quyển sách - hẳn là một cuốn bách khoa toàn thư - thậm chí cả một ngôn ngữ... như vậy để nói rằng cái khối u trên người mẹ tôi đã phát triển quá to, và trở nên quá nặng, đến nỗi trong khi đường Warden dưới chân ngọn đồi hai tầng nhà tôi ngập đầy nước mưa vàng khè bẩn thỉu và những chiếc xe buýt bỏ không bắt đầu hoen gỉ và bọn trẻ con bơi giữa con đường chất lỏng còn những tờ báo ướt sũng chìm trong nước, Amina thấy mình trong một gian tháp canh hình tròn dưới tầng một, hầu như không thể di chuyển dưới trọng lượng của trái bóng nặng như chì.
Mưa không dứt. Nước ngấm vào dưới những ô cửa nơi từng đóa tulip thủy tinh màu nhảy múa trên các ô kính nẹp chì. Khăn tắm, được ốp vào khung cửa, hút nước cho đến khi nặng trĩu, sũng nước, vô dụng. Biển: xám xịt và trĩu nặng và vươn dài để gặp những quầng mây nơi chân trời bị co hẹp. Mưa đánh trống vào tai mẹ tôi, góp phần vào sự hỗn loạn của thầy bói và tính cả tin kế thừa từ mẹ và sự hiện diện gây xáo trộn của những vật thuộc sở hữu người lạ, khiến bà tưởng tượng ra đủ thứ kỳ quái. Nằm chết gí dưới đứa con đang lớn dần, Amina hình dung ra bà là một tên giết người bị kết án dưới thời đại đế Mughal, cái thời mà chết vì bị nghiền nát dưới một tảng đá là một hình phạt phổ biến... và những năm sau này, mỗi lần nhìn lại giai đoạn ấy, ở cuối thời kỳ trước khi bà làm mẹ, giai đoạn khi tiếng tích tắc của những tờ-lịch đếm ngược hối thúc mọi người đến ngày 15 tháng Tám, bà sẽ bảo: “Tôi chẳng biết gì về chuyện ấy cả. Với tôi, cứ như thể thời gian đã dừng lại hoàn toàn. Đứa bé trong bụng tôi đã dừng hết đồng hồ lại. Tôi tin chắc là thế. Đừng cười: chị có nhớ cái tháp đồng hồ dưới chân đồi không? Tôi nói chị nghe, sau mùa mưa năm ấy, nó không bao giờ chạy nữa.”
... Và Musa, lão bộc của cha tôi, người đã theo hai vợ chồng đến Bombay, chạy đi khoe với những người hầu khác, dưới bếp của những cung điện ngói đỏ, dưới dãy nhà của người hầu, đằng sau Điện Versailles và Escorial và Sans Souci: “Đó là một đúa bé mười-rupee hẳn hoi; phải rồi! Một con cá chim mười-đồng cỡ bự, chờ mà xem!” Đám người hầu rất vui; vì sinh nở là chuyện tốt và một đứa bé bụ bẫm là điều tốt hơn cả...
... Còn Amina, chủ nhân cái bụng đã dừng tất cả đồng hồ lại, ngồi bất động trong căn phòng ở một ngọn tháp và bảo chồng, “Mình sờ thử xem... đấy, mình thấy không?... thằng bé to khỏe chưa; mảnh trăng bé bỏng của chúng ta.”
Mãi tới khi mùa mưa kết thúc, và Amina đã trở nên nặng đến nỗi hai người hầu nam phải đan tay thành cái ghế để nâng bà lên, Wee Willie Winkie mới trở lại hát ở sân khấu tròn giữa bốn ngôi nhà; và mãi đến lúc ấy Amina mới nhận ra bà không chỉ có một, mà đến hai kình địch (hai người bà biết) cho giải thưởng của tờ Thời báo Ấn Độ, và rằng, tiên tri hay không, nó cũng sẽ là một cú về đích cực kỳ khít khao.
“Wee Willie Winkie đó là tên anh, ca hát kiếm ăn trước giờ lừng danh!”
Cựu ảo thuật gia và chủ hộp vạn hoa và ca sĩ... ngay từ trước khi tôi ra đờỉ, cái khuôn đã định hình. Các nghệ sĩ tạp kỹ sẽ thao túng đời tôi.
“Hy vọng rằng quý vị thấy thoải máỉ... Hay quý vị thấy thoải trống? Ôi, đùa đấy, quý bà và quý nương, hãy cười lên xem nào.”[10]
[10] Nguyên văn: Ladies and ladahs. Ladies tiếng Anh là quý bà, quý cô, đọc gần giống như ladah, tiếng Hindi nghĩa là người yêu dấu, cưng.
Caođenđiểntrai, một gã hề với chiếc phong cầm, anh đứng giữa vòng tròn sân khấu. Trong vườn của Biệt thự Buckingham, ngón chân cái của cha tôi ngọ nguậy (cùng chín anh bạn đồng nghiệp) bên cạnh và bên dưới cái ngôi giữa của William Methwold... đi xăng đan, tròn xoe và không hay biết mình sắp đến hồi mạt vận. Còn Wee Willie Winkie (mà tên thật ta không bao giờ biết) pha trò và hát. Từ hiên nhà ở tầng một Amina xem và nghe; và, từ hiên nhà hàng xóm, cảm thấy sự sắc nhọn trong ánh mắt ganh đua tị nạnh của Nussie-vịt-bầu.
... Trong khi tôi, ở bàn mình, cảm thấy sự châm chích từ thái độ nôn nóng của Padma. (Tôi, đôi khi, ao ước có một thính giả sắc sảo hơn, một người hiểu được sự cần thiết của nhịp điệu, tiết tấu và màn dạo đầu vi tế của những hợp âm thứ về sau sẽ nổi lên, trỗi dậy, chiếm lĩnh cả giai điệu; một người sẽ biết, chẳng hạn, rằng cho dẫu sức nặng của em bé và mùa mưa đã làm câm lặng chiếc đồng hồ trên tháp của Điền trang, song nhịp đập trầm ổn từ tiếng tích tắc của Mountbatten vẫn ở đấy, êm dịu nhưng quyết tuyệt, và chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi nó lấp đầy tai ta bằng tiếng nhạc giữ nhịp đều đặn, thì thùng.) Padma nói: “Giờ tôi chả muốn biết gì về gã Winkie này sất; cả ngày lẫn đêm tôi chờ đợi mà anh vẫn chưa chịu ra đời!” Nhưng tôi khuyên cô kiên nhẫn; mọi thứ đều ở đúng chỗ của nó, tôi khiển trách bông sen-phân của mình, vì cả Winkie nữa, cũng có mục đích và vị thế của anh, giờ anh đang chọc ghẹo các bà mang thai đứng trên hiên nhà họ, ngừng hát để nói, “Hẳn các bà đã nghe nói về giải thưởng? Tôi cũng thế. Vanita nhà tôi cũng sắp đến kỳ sinh nở, sắp rồi; biết đâu chính cô ấy chứ không phải các vị sẽ được lên báo!”... và Amina nhún vai, còn Methwold mỉm cười (có phải là một nụ cười gượng gạo? Vì sao?) dưới cái ngôi giữa, và môi cha tôi trề ra vẻ hiểu biết trong khi ngón chân cái ngọ nguậy và ông nói, “Thằng cha này hỗn; hắn đùa quá trớn rồi.” Nhưng giờ Methwold với một thái độ rất giống với sự bối rối - thậm chí ăn năn - trách Ahmed Sinai, “Vớ vẩn, ông bạn. Chức nghiệp của thằng hề, ông biết đấy. Được phép khiêu khích và nhạo báng. Chiếc van an toàn quan trọng của xã hội.” Và cha tôi nhún vai, “Hmm.” Nhưng anh ta rất khôn ngoan, tay Winkie này, bởi anh ta đang xoa dịu tình hình, nói, “Sinh nở là chuyện tốt; hai ca là hai chuyện tốt! Quá tốt[11], các bà, đùa đấy, thấy không?” Và không khí thay đổi khi anh đưa ra một ý tưởng độc đáo, một suy nghĩ quyết định, có sức mạnh áp đảo: “Quý bà, quý ông, quý vị phải làm gì để thấy thoải mái ở nơi này, giữa quá khứ dài lâu của Methwold sahib? Tôi nói các vị nghe: nghe có thể kỳ lạ; không thực; nhưng đây giờ là một ngôi nhà mới, thưa quý bà, quý nương, và không ngôi nhà mới nào là thật chừng nào nó còn chưa chứng kiến một đứa trẻ ra đời. Đứa trẻ sẽ làm quý vị thấy đây là nhà mình.” Sau đó, là một bài hát: “Daisy, Daisy...” Và Ngài Methwold, hòa theo, nhưng vẫn có gì đó u ám nhuốm bẩn chân mày ông ta…
[11] Hai chuyện tốt (two fine) đồng âm với quá tốt (too fine).
… Và đây là lý do: phải, đó là tội lỗi, bởi Winkie nhà ta có thể khôn ngoan và hài hước đấy, nhưng vẫn chưa đủ khôn ngoan, và giờ đã đến lúc tiết lộ bí mật đầu tiên của cái ngôi giữa trên đầu William Methwold, bởi nó đã nhỏ giọt xuống và nhuốm bẩn mặt ông ta: một ngày nọ, từ lâu trước tiếng tích tắc và vụ rao bán thượng vàng hạ cám, Ngài Methwold đã mời Winkie và Vanita của anh đến, hát riêng, trong căn phòng giờ là phòng khách chính của nhà tôi; và sau một lúc ông ta bảo, “Này, Wee Willie, giúp ta một việc nhé, anh bạn: ta cần mua thuốc theo đơn này, đau đầu kinh khủng, cầm nó ra Kemp’s Corner rồi bảo tay dược sĩ bán cho, người hầu nhà này lăn ra cảm hết rồi.” Winkie, một anh nhà nghèo, bảo Dạ sahib ngay đây sahib rồi chạy đi; và thế là Vanita còn lại một mình, với cái ngôi giữa, cảm thấy nó phát ra một sức hút không thể cưỡng lại lên những ngón tay mình, và khi Methwold ngồi bất động trên chiếc ghế mây, mặc bộ vét mỏng màu kem với một nhánh hồng trên ve áo, cô thấy mình lại gần ông ta, ngón tay xòe ra, cảm thấy ngón tay mình chạm vào mái tóc; tìm thấy cái ngôi giữa, và bắt đầu vò rối nó.
Thế nên giờ đây, chín tháng sau, Wee Willie Winkie đùa cợt vì đứa trẻ sắp ra đời của vợ mình và vết nhơ hiện lên trên vầng trán một người Anh.
“Thì sao?” Padma nói. “Thì việc gì đến tôi, cái tay Winkie và cô vợ mà anh còn chưa kể tôi nghe bao giờ này?”
Có những người chẳng bao giờ thỏa mãn; nhưng riêng Padma thì sẽ, sớm thôi.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian